Giải nghĩa câu: “Đạo bất đồng bất tương vi mưu”
Câu này có xuất xứ trong Luận Ngữ, Chương Vệ Linh Công, nguyên văn như sau子曰:‘道不同,不相为谋’ (Tử viết: Đạo bất đồng bất tương vi mưu)
Câu này có một số cách hiểu như sau:
1. Không cùng chí hướng thì không thể cùng nhau mưu sự nghiệp được. Nghĩa này giống câu: chim sẻ sao biết được chí chim hồng.
2. Tư tưởng, quan niệm khác nhau thì không cùng nhau bàn luận trao đổi được. Nghĩa này thường gặp các tư tưởng tôn giáo khác nhau luôn chê bai đả kích lẫn nhau.
3. Nghề nghiệp khác nhau không thể đàm đạo cùng nhau được.
VD: bác nông dân thì chỉ biết nói chuyện về lúa ngô khoai sắn, anh thợ sửa xe thì chỉ biết nói chuyện về bu-gi bu-lông ốc vít, 2 người ngồi với nhau không có tiếng nói chung, không thể đàm đạo được.
Nói chung nghĩa 1 là phổ biến nhất, dùng rộng rãi nhất.
Ý nói người không cùng quan điểm, chí hướng thì không thiểu nói chuyện, thương lượng hay đàm đạo được.
Người xưa nói, phàm là chuyện lớn muốn được thành công thì đều phải chung một 1 đích, Nhưng nếu cố chấp để coi rằng mục tiêu đó là chung mà cố làm thì ắt sẽ gây ra đại họa, đau khổ và bất hạnh đến nhau. Đó là ý nghĩa câu này.
Cũng như, nhớ về câu chuyện người xưa vẫn kể cuộc gặp gỡ giữa 2 vị thánh nhân Khổng tử và Lão Tử:
Vào một ngày trong năm 538 trước công nguyên, Khổng Tử nói với đệ tử là Nam Công Kính Thúc rằng mình muốn đi bái kiến Lão Tử. Hiển nhiên, đề nghị này của Khổng Tử được Nam Công Kính Thúc đồng ý, đồng thời lập tức báo lên quốc vương của nước Lỗ.
Vua Lỗ cho phép ông đi, đồng thười bố trí cho ông một xe, 2 ngựa kéo và đoàn người tháp tùng, Nam Công Kính Thúc cũng đi cùng Khổng Tử chuyến này.
Thấy Khổng Tử vượt ngàn dặm xa xôi đến thăm mình, Lão Tử vô cùng phấn khởi.
Ông hỏi Khổng Tử rằng: “Ông đã đắc Đạo rồi chứ?”
Khổng Tử trả lời: “Tôi đã cầu suốt 27 năm nay nhưng vẫn chưa đắc Đạo.”
Lão Tử nói: “Nếu như Đạo là một thứ gì đó có hữu hình và có thể mang dâng cho người khác, vậy thì người ta đã tranh nhau lấy đem dâng lên vua. Nếu như Đạo là thứ có thểm đem đi tặng cho người khác, người ta đã đem nó tặng cho người thân.
Nếu như Đạo có thể giảng giải rõ ràng, người ta sẽ đem nó giảng giải cho anh em của họ. Nếu như Đạo có thể truyền thụ cho người khác, người ta sẽ tranh nhau truyền nó cho con cái mình.
Song những điều nói ở trên đều là không thể. Nếu một người có nhận thức không chuẩn xác về Đạo, Đạo tuyệt đối sẽ không chạm được đến trái tim của anh ta.”
Khổng Tử nói: “Tôi nghiên cứu ‘Thi kinh’, ‘Thư kinh’, ‘Châu lễ’, ‘Châu lạc’, ‘Dị kinh’, ‘Xuân thu’, giảng thuyết đạo lý trị quốc của các vị tiên vương, hiểu rõ con đường thành công của Chu Công, Triệu Công. Tôi đã lấy đó để hầu chuyện hơn 70 quân vương, họ đều không chọn chủ trương của tôi. Xem ra họ thật khó thuyết phục!”
Lão Tử liền đáp: “Những thứ ông nghiên cứu đều là sử cũ, từ các đời tiên vương, ông thử nói xem chúng có tác dụng gì không? Thứ mà ông đang tu hiện nay cũng là thứ đã cũ.”
Sau cuộc hội thoại đầu tiên ấy, Lão Tử liền đưa Khổng Tử đi bái kiến đại phu Trường Hoành.
Trường Hoành là người rất am hiểu về lý luận âm nhạc nên đã dạy Khổng Tử về âm luật, về các lý luận âm nhạc, đưa Khổng Tử đi tham dự buổi lễ tế thần, khảo sát các địa điểm tuyên giáo… những việc này khiến Khổng Tử vô cùng cảm kích, thu nạp được nhiều điều mới lạ.
Ở lại vài ngày, ông mới xin phép cáo từ Lão Tử về nước.
Lão Tử tiễn Khổng Tử ra về, nói: “Tôi nghe nói, người phú quý lấy của cải để tặng cho người, người nhân nghĩa lấy lời nói để tặng cho người. Tôi không phải người phú quý, chẳng có của cái để tặng cho ông, nên chỉ muốn tặng ông vài lời.
Thời nay, người thông minh mà sâu sắc, gặp nạn thậm chí là họa chết người là do hay mỉa mai người khác, rước chuyện thị phi. Người giỏi biện luận lại tinh thông mọi chuyện, sở dĩ gặp họa là do quá khoa trương người khác.
Là phận con cái, đừng cho rằng mình cao hơn người, là bề tôi, đừng cho mình ở trên người, hy vọng ông nhớ thật kỹ.”
Lời dặn dò của Lão Tử ý nói, tôi chẳng có gì tặng cho ông, chỉ tặng cho ông vài câu này thôi, đó là đừng phỉ báng người khác, cũng đừng khoa trương tâng bốc người khác, đừng kiêu căng, ngạo mạn.
Khổng Tử đáp lời: “Đệ tử nhất định sẽ ghi nhớ những lời này trong tâm.”
Đi đến bên sông Hoàng Hà, Khổng Tử nhìn thấy sóng nước cuồn cuộn, khí thế như vạn mã đằng phi, tiếng vang như hổ gầm sấm dậy.
Ông đứng bên bờ sông thật lâu, bất giác cất lời cảm thán: “Nước sông chảy suốt đêm ngày không ngừng nghỉ, sinh mệnh con người cũng vậy, không biết nhân sinh sẽ chảy đến đâu đây.”
Nghe vậy, Lão Tử liền đáp: “Con người sinh ra trên đời theo lẽ tự nhiên, chết cũng tự nhiên, sống trên đời thuận theo lẽ tự nhiên, có như vậy bản tính mới không loạn, không thuận theo tự nhiên, bận bịu chìm đắm trong nhân và nghĩa, bản tính lúc nào cũng bị gó bó, trói buộc, khó có thể thảnh thơi.
Trong đầu lúc nào cũng cánh cánh suy nghĩ về công danh, tâm vì thế mà bất an, mưu lợi trong tâm, chỉ rước thêm phiền não.”
Khổng Tử liền giải thích: “Tôi vẫn lo lắng rằng, không hành đạo, không theo nhân nghĩa, nước sẽ loạn vì bất trị, ví như đời người ngắn ngủi, không thể có công với đời, không có ích cho dân thì tiếc lắm thay.”
Trầm ngâm một lát, Lão Tử liền chỉ tay xuống dòng nước trên sông Hoàng Hà nói với Khổng Tử: “Tại sao ông không học đức hạnh của dòng nước kia?”
Khổng Tử hỏi lại: “Nước có đức hạnh gì?”
Lão Tử trả lời: “Trong thiên hạ, có thứ gì mềm mại hơn nước, vậy nhưng chưa chắc kẻ mạnh đã có thể thắng thế, lấy nhu thắng cương, lấy yếu thắng mạnh, đó là thứ mà ta có thể học từ nước.”
Khổng Tử nghe vậy bất giác tỉnh ngộ, nói: “Lời của tiên sinh khiến tôi ngộ ra nhiều điều, khai thông bế tắc:
Nước chảy từ cao xuống thấp, uốn lượn quanh co nhưng có phương hướng nhất định. Nước giống như chính nghĩa, mãnh liệt mênh mông không bờ bến, cho dù rơi xuống vực sâu muôn trượng cũng không chút sợ hãi.
Nước mềm mỏng, nhưng không có gì không soi thấu, vạn vật nhập vào xuất ra nước mà biến thành tinh khiết tươi mới. Đó là cái thiện, là trí tuệ tối cao.”
Lão Tử gật đầu, đáp: “Lần này trở về, ông nên bỏ cái ngạo khí trong lời nói và biểu cảm, trừ cái chí lớn ở dung mạo. Nếu không, người chưa thấy đã thấy tiếng, thân chưa tới mà gió đã động, phô trương khuếch đại bản thân, như hổ đi trên phố, thử hỏi ai dám dùng ông?”
Khổng Tử vô cùng cảm kích, đáp: “Lời của tiên sinh, đệ tử xin tạc ghi trong lòng, cả đời không quên. Đệ tử sẽ tuân thủ không chút chậm trễ, như cách để tạ ơn tiên sinh”. Nói xong, ông cáo từ rồi cùng Nam Cung Kính Thúc lên xe về nước Lỗ.
Từ khi trở về, suốt 3 ngày liền Khổng Tử không nói một lời. Tử Công lấy làm lạ lắm, mới hỏi có chuyện gì, Khổng Tử liền đáp:
“Nếu ta gặp một người có tư tưởng phóng khoáng giống như chim bay, ta có thể dùng luận điểm sắc như mũi tên, ngắm bắn chuẩn xác và chế phục người đó.
Nếu tư tưởng của đối phương như một con hươu có thể chạy, ta có thể dùng chó săn để săn đuổi đến cùng, nhất định sẽ khiến người đó phải khuất phục trước luận điểm của ta.
Nếu tư tưởng của đối phương như một con cá bơi tự do trong nước, ta sẽ dùng móc câu để bắt cho được.
Thế nhưng, nếu đối phương có suy nghĩ, tư tưởng như một con rồng, cưỡi mây đạp gió, du ngoạn ở nơi quá hư hoặc, vô ảnh vô hình không thể chạm tới, ta sẽ chẳng có cách nào bắt được.
Ta đã gặp được Lão Tử, cảnh giới tư tưởng của ông ấy chẳng khác gì con rồng quá đỗi hư không kia, ông ấy đã khiến ta nói không thành lời, lỡ mở miệng mà không thể rút lại được, khiến tâm, thần của ta bất định, không biết ông ấy rốt cuộc là người hay là thánh. Lão Tử, quả thực là thầy của ta!”
Và sau hàng ngàn năm, những tư tưởng sâu xa, thâm thúy của Lão Tử cho đến nay vẫn là những giá trị vô giá đối với hậu thế. Lời của Khổng Tử khi xưa, thật đúng lắm thay!