Hán văn:

民 之 飢, 以 其 上 食 稅 之 多, 是 以 飢. 民 之 難 治, 以 其 上之 有 為, 是 以 難 治. 民 之 輕 死, 以 其 求 生 之 厚, 是 以 輕 死. 夫 唯 無 以 生 為 者 是 賢 於 貴 生.

Phiên âm:

  1. Dân chi cơ, dĩ kỳ thượng thực thuế chi đa, thị dĩ cơ.
  2. Dân chi nan trị, dĩ kỳ thượng chi hữu vi, thị dĩ nan trị.
  3. Dân chi khinh tử, dĩ kỳ cầu sinh chi hậu, thị dĩ khinh tử.
  4. Phù duy vô dĩ sinh vi giả thị hiền ư quí sinh.

Dịch xuôi:

  1. Dân đói, là vì người trên thu thuế nhiều, nên dân mới đói.
  2. Dân khó trị, là vì người trên dở dói lôi thôi, vì thế nên khó trị.
  3. Dân coi thường cái chết, chính là vì muốn sống cho rồi rào hậu hĩ, nên mới khinh chết.
  4. Người sống đơn sơ hay hơn người sống cầu kỳ.

Dịch thơ:

  1. Vì đâu dân phải cơ hàn ?

Người trên sưu thuế đi bòn của dân.

Sưu cao dân mới phong trần,

Thuế cao dân mới kém ăn hao gầy.

  1. Dân mà ngang ngạnh bài bây,

Là vì đã bị quát quay quá nhiều.

Người trên sinh chuyện đến điều,

Cho nên dân mới đâm liều phá ngang.

  1. Dân càng thích sống đàng hoàng,

Lại càng vong mạng dễ dàng như không.

  1. Cho nên ai sống ung dung,

Hẳn là hơn kẻ lao lung tối ngày.

BÌNH GIẢNG

  1. Ý tứ chương này thực rõ ràng.

Trước hết Lão tử cho rằng dân đói, dân khổ không phải tại vì dân lười biếng, mà chính vì bị người trên bóc lột bằng sưu thuế.

  1. Nếu người trên không lấy đức trị dân, chỉ lấy quyền thế mà ức chế dân, lấy thủ đoạn mà thao túng, lũng đoạn dân, dân sẽ căm thù và sẽ trở nên rất khó trị.
  2. Con người càng muốn xa hoa bao nhiêu, thì lại càng dễ liều thân táng mạng bấy nhiêu.

Tỳ bà hành đã có câu:

«Thương nhân trọng lợi, khinh biệt ly,

商 人 重 利 輕 別 離

Tiền nguyệt Phù Lương mãi trà khứ.

前 月 浮 梁 買 茶 去

Khứ lai giang khẩu thủ không thuyền,

去 來 江 口 守 空 船

Nhiễu thuyền minh nguyệt giang thủy hàn.»

遶 船 明 月 江 水 寒

Phan Huy Vịnh dịch:

«Khách trọng lợi, khinh đường ly cách,

Mải buôn chè sớm tếch ngàn khơi.

Thuyền không đỗ bến mặc ai,

Quanh thuyền trăng dõi, nước trôi lạnh lùng.»

  1. Cho nên sống giản dị không tham cầu, chính là lối sống hay ho nhất, an toàn nhất.
ban may cat sat makita