Hán văn:

民 不 畏 威, 則 大 威 至. 無 狎 其 所 居, 無 厭 其 所 生. 夫 唯 不 厭, 是 以 不 厭. 是 以聖 人 自 知 不 自 見,  自 愛 不 自 貴. 故 去 彼 取 此.

Phiên âm:

  1. Dân bất[1]úy uy, tắc đại uy chí.
  2. Vô hiệp[2]kỳ sở cư, vô yếm kỳ sở sinh. Phù duy bất yếm, thị dĩ bất yếm.
  3. Thị dĩ thánh nhân, tự tri bất tự kiến, tự ái bất tự quý. Cố khứ bỉ, thủ thử.[3]

Dịch xuôi:

  1. Dân mà không sợ cái đáng sợ, tất cái sợ lớn sẽ đến.
  2. Đừng khinh chỗ mình ở, đừng chán đời sống mình. Vì không chê nên không chán.
  3. Cho nên thánh nhân biết mình, và không cầu người biết, yêu mình mà không cần người trọng. Cho nên bỏ cái kia giữ cái này.

Dịch thơ:

  1. Những người chẳng sợ chẳng kinh,

Có ngày sẽ phải tan tành xác ve.

  1. Cửa nhà chật hẹp chẳng chê,

Cuộc đời đáng sống chớ nề hà chi.

Chẳng chê cũng chẳng khinh khi,

Cho nên vui sống, còn gì hay hơn.

  1. Cho nên phàm đấng thánh nhân,

Trọng mình nhưng chẳng tranh khôn với người.

Yêu mình nhưng chẳng đua đời,

Chẳng cần danh giá, chẳng đòi tiếng tăm.

Nguồn cơn rõ lẽ biến hằng,

Biết buông cái dở, biết cầm cái hay.

BÌNH GIẢNG

Chương này Lão tử lại đề cập ba vấn đề:

  1. Nên cẩn trọng, đề phòng hiểm họa.
  2. Đừng khinh chê hoàn cảnh hiện tại của mình.
  3. Hãy tự trọng nhưng không cầu danh; tự ái nhưng không cầu tha nhân tôn trọng, quí hóa mình.
  4. Nên cẩn trọng đề phòng hiểm họa.

Đó là một bài học khôn ngoan tối thiểu. Luận Ngữ cũng nói: «Nhân vô viễn lự, tất hữu cận ưu.» 人無 遠 慮 必 有 近 憂 (Người không lo xa, tất sẽ có cái buồn gần.) [4]

Câu «Cư an, tư nguy» 居 安 思 危 ngày nay cũng trở thành phương châm hoạt động.

Dịch Kinh nơi quẻ Khôn và quẻ Bĩ cũng đã nhiều lần dạy người bài học nói trên. [5]

  1. Đừng khinh chê hoàn cảnh hiện tại của mình.

Nghèo không khổ, khổ vì mình nghèo mới là khổ. Đức Khổng cũng nói: «Phạn sơ tự ẩm thủy, khúc quăng nhi chẩm chi, lạc diệc tại kỳ trung hĩ. Bất nghĩa nhi phú thả quí, ư ngã như phù vân.» 飯 疏 食 飲 水,曲 肱 而 枕 之,樂 亦 在 其 中 矣 . 不 義 而 富 且 貴,於 我 如 浮 雲 (Ăn cơm thô, uống nước lã, co cánh tay mà gối đầu, vẫn thấy vui. Bất nghĩa mà phú quí, thì ta coi như mây nổi.) [6]

  1. Hãy tự trọng nhưng không cầu danh, tự ái nhưng không cầu tha nhân tôn trọng quí hóa mình.

Âu Châu thường dạy rằng con người đạo đức phải khinh miệt mình, ghét bỏ mình, phải đi vào con đường vong thân (aliénation) cho xã hội.

Á Châu, trái lại, dạy rằng con người đạo đức phải tự trọng, tự ái, phải tự do, tự chủ.

Khổng tử cũng nói: «Này một con người tự khinh khi mình trước, rồi kẻ khác mới khinh khi mình. Một nhà tự hủy hoại mình trước, rồi kẻ khác mới hủy hoại nhà mình.»[7]

Thiên Thái Giáp 太 甲 trong Kinh Thư có chép: «Những tai ách do Trời làm ra, mình còn tránh được. Những tai ách tự mình gây nên, thì mình phải chết.» [8]

Mới hay «Linh tại ngã, bất linh tại ngã.» 靈 在 我 不 靈 在 我 . Cho nên thánh nhân nhận chân được giá trị nội tại của mình.

Tự trọng vì biết trong lòng mình có Trời, có Đạo.

Tự ái vì biết mình sinh ra đời để thực hiện một sứ mệnh tối cao đại là tiến tới tinh hoa hoàn thiện.

Tuy nhiên không cầu danh tranh lợi, không khoe hay khoe giỏi với người. Miễn là lương tâm mình chứng giám cho hành vi mình, như vậy đã là đủ.

Trung Dung viết: «Đến như xa lánh thế tục, chẳng ai thấy biết mình, thế mà mình không buồn, duy có bậc thánh nhân mới làm như vậy được.» [9]

Cho nên thánh nhân khứ bỉ, thủ thử 去 彼 守 此 . Khứ bỉ là bỏ danh lợi phù phiếm bên ngoài. Thủ thử là giữ chân giá trị bên trong của mình.

[1] Có sách viết: Dân chi úy uy 民 之 畏 威.

[2] Hiệp 狎: khinh thường.

[3] Wieger dịch: Le sage connait sa valeur, mais ne se montre pas n’éprouve pas le besoin d’exhiber sa valeur). Il s’aime mais ne cherche pas à se faire estimer. Il discerne, adoptant ceci et rejetant celà (d’après les lumières de sa sagesse).

[4] Luận Ngữ, Vệ Linh Công 衛 靈 公, thiên 15, chương 11.

[5] Xem Văn ngôn quẻ Khôn và Hệ từ Hạ chương V, Bình giải Hào cửu ngũ, quẻ Bĩ.

[6] Luận Ngữ. Thuật Nhi 述 而 thiên 7, chương 15. Xem thêm Trung Dung, chương 14.

[7] Phù, nhân tất tự vũ, nhiên hậu nhân vũ chi. Gia tất tự hủy, nhi hậu nhân hủy chi. Quốc tất tự phạt, nhi hậu nhân phạt chi. 夫 人 必 自 侮 然 後 人 侮 之 家 必 自 毀 而 後 人 毀之 國 必 自 伐 而 後 人 伐 之 Mạnh tử, Ly Lâu thượng, 8.

[8] Thái giáp viết: Thiên tác nghiệt, do khả vi; tự tác nghiệt, bất khả hoạt 太 甲 曰 天 作 孽 猶 可 違 自 作 孽 不 可 活 Mạnh tử, Ly Lâu thượng, 8.

[9] Độn thế bất kiến tri nhi bất hối, duy thánh giả năng chi. 遯 世 不 見 知 而 不 悔, 唯 聖 者 能 之 Trung Dung, chương 11.

ban may cat sat makita