Hán văn:
天 下 皆 謂 我 大 似 不 肖. 夫 唯 大, 故 似 不 肖. 若 肖 久 矣, 其 細 也 夫. 我 有 三 寶, 持 而 保 之. 一 曰 慈, 二 曰 儉, 三 曰 不 敢 為 天 下 先. 慈 故 能 勇; 儉 故 能 廣; 不 敢 為 天 下 先 故 能 成 器 長. 今 舍 慈 且 勇, 舍 儉 且 廣, 舍 後 且 先, 死 矣. 夫 慈 以 戰 則 勝, 以 守 則 固. 天 將 救 之, 以 慈 衛 之.
Phiên âm:
- Thiên hạ giai vị ngã đại[1]tự bất tiếu. Phù duy đại, cố tự bất tiếu. Nhược tiếu cửu hĩ, kỳ tế dã phù. [2]
- Ngã hữu tam bảo, trì nhi bảo chi. Nhất viết từ, nhị viết kiệm, tam viết bất cảm vi thiên hạ tiên. Từ cố năng dũng; kiệm cố năng quảng; bất cảm vi thiên hạ tiên, cố năng thành khí trưởng.
- Kim xả từ thả dũng, xả kiệm thả quảng, xả hậu thả tiên, tử hĩ.
- Phù từ dĩ chiến tắc thắng, dĩ thủ tắc cố. Thiên tương cứu chi, dĩ từ vệ chi.
Dịch xuôi:
- Thiên hạ cho ta là trọng đại, mặc dầu ta phong thái tầm thường. Cao đại chính là ỏ chỗ vẻ ngoài tầm thường. Còn nhiều kẻ làm ra vẻ quan trọng nhưng chính lại hết sức tầm thường, nhỏ mọn.
- Ta có ba báu vật, ta hết sức nắm giữ chắt chiu. Một làkhoan từ.Hai là tiết kiệm. Ba là không dám đứng trước thiên hạ (coi mình hơn người). Khoan từ nên mới hùng dũng. Tiết kiệm nên mới rộng rãi. Không dám đứng trước người, nên mới được hiển dương.
- Nay người ta bỏ khoan từ, chạy theo dũng lực; bỏ tiết kiệm chạy theo phung phí; bỏ chỗ sau mà tranh chỗ trước; thế là chết vậy.
- Lấy khoan từ mà tranh đấu sẽ thắng, mà cố thủ sẽ vững. Trời muốn cứu ai, lấy khoan từ mà bảo vệ cho.
Dịch thơ:
- Đời thường nói ta đây trọng đại,
Mặc dầu ta phong thái tầm thường.
Tuy ta cao quí đường đường,
Nhưng ta dung dị in dường chúng dân.
Càng uốn éo mười phân kiểu điệu,
Càng đơn sai càng thiếu thiện căn.
- Đây ba bảo vật ta cầm,
Ta ôm, ta ấp bất phân tháng ngày.
Một là từ ái với người,
Hai là cần kiệm của trời chẳng khinh.
Ba là chẳng dám ỷ mình,
Không kênh, không kiệu, không tranh hơn người.
Có từ ái tức thời mới mạnh,
Có chắt chiu mới thịnh mới xương.
Ở đời có biết nhún nhường,
Mới mong địa vị hiển dương có ngày.
- Nay thiên hạ chỉ say dũng mãnh,
Quên nhân từ, ưa mạnh hơn người,
Những ưa phóng dật thảnh thơi,
Xa bề cần kiệm sống đời xa hoa.
Không nhường nhịn chỉ ưa tranh đấu.
Thích hơn người là dấu bại vong,
- Nhân từ là mẹ thành công,
Hai đường tiến thủ tinh ròng cả hai.
Trời kia muốn vì ai bảo trợ,
Đem nhân từ đến chở che cho.
BÌNH GIẢNG
Chương này Lão tử đề cao sự dung dị và ba nhân đức: Từ ái, tiết kiệm, khiêm cung.
Sự dung dị chính là ấn tín của một tâm hồn cao siêu. Trung Dung cũng đã đề cao đời sống dung dị: «Cư dị dĩ sĩ mệnh.» 居 易 以 俟 命 (Trung Dung 中 庸, chương 14).
Đời sống các vị giáo chủ vừa cao siêu vừa dung dị. Ví dụ đời sống Chúa Cơ Đốc chính là điển hình của sự dung dị.
Tiếp đến Lão tử khuyên ta nên từ ái 慈 愛, tiết kiệm 節 儉, khiêm cung 謙 恭. Từ ái tức là thương yêu mọi người. Tiết kiệm tức là quí trọng tài vật của trời. Khiêm cung tức là quí trọng tha nhân.
Các vua chúa xưa cũng thường giữ ba nhân đức này:
– Về từ 慈, phương châm của thánh vương xưa là: «Hành nhất bất nghĩa, sát nhân bất cô nhi đắc thiên hạ, giai bất vi dã.» 行 一 不 義,殺 一 人 不 辜 而 得 天 下 皆 不 為 也 (Làm một việc bất nghĩa, giết một kẻ vô tội để được thiên hạ, cũng không hề làm.)[3]
– Về sự cần kiệm 勤 儉, ta thấy gương tích của Minh thế tổ 明 世 祖 như sau:
Một hôm vua thấy một quan hoạn mang đôi giày mới mà chạy ngoài sân, vua nổi giận truyền chỉ đòi vào mà quở rằng: «Đôi giày tuy là vật mọn, xong cũng của quốc gia, mà của quốc gia là tiền thuế của dân dâng cấp cho quan quân chi dụng. Vả lại công làm đôi giày cũng lâu lắc, chẳng phải một ngày hay một buổi mà rồi? Lẽ nào ngươi dám hủy của như vậy? Trẫm nghe nói vua Nguyên Thái tổ thấy quan hoạn đi giày mới mà quăng giày cũ, thì xử trượng mà quở rằng: Da chưa rách sao lại quăng đi, ấy là phí của quá lẽ ! Trẫm rất khen lời ấy. Vì con người trong lúc còn khốn nạn nghèo nàn, nhờ cần kiệm mà khá, đến khi mới giàu sang lại sinh sự xài phí quá lẽ cho đến nỗi phải suy vi. Từ rày sắp sau, bá quan gần đi chầu mà gặp trời mưa, thì được phép mặc áo đầu cũng đội nón, mang tơi tùy ý.» [4]
– Về sự khiêm cung 謙 恭 giúp con người nên việc, chúng ta hẳn nhớ tích Lưu Bị ba lần đến thảo lư cầu Khổng Minh, nhờ vậy mới gầy dựng được cơ đồ nhà Hán, chiếm Ba Thục cùng với Ngô, Ngụy, lập thành Tam Quốc.
Nếu bỏ Từ 慈, Kiệm 儉, Khiêm 謙 và theo con đường cậy mạnh tranh khôn, xa hoa phù phiếm, hống hách kiêu căng, chắc sẽ đi đến tử vong.
Cuối cùng, Lão tử lại lấy chữ Từ 慈 mà kết thúc chương. Mới hay lòng nhân từ khoan hậu là một đức tính hết sức cao quí vậy.
[1] Có sách viết: Thiên hạ giai vị ngã Đạo đại 天 下 皆 謂 我 道 大 (bản Vương Bật).
[2] Léon Wieger dịch câu này như sau: Tout le monde sait, au contraire, combien ceux qui posent pour nobles, sont hommes de mince valeur.
[3] Mạnh tử, Công tôn Sửu, chương cú thượng.
[4] Xem Đại Minh Hồng Võ 大 明 洪 武 . Thanh Phong dịch, tr. 285.