Hán văn:
載 營 魄 抱 一 能 無 離 乎? 專 氣 致 柔, 能 如 嬰 兒 乎? 滌 除 玄 覽, 能 無 疵 乎? 愛 民 治 國, 能 無 為 乎? 天 門 開 闔, 能 無 雌 乎? 明 白 四 達, 能 無 知 乎? 生 而 畜 之, 生 而 不 有, 為 而 不 恃, 長 而 不 宰, 是 謂 玄 德.
Phiên âm:
- Tải doanh phách[1]bão nhất[2]năng vô ly hồ?
- Chuyên khí trí nhu,[3]năng anh nhi[4]hồ?
- Dịch[5]trừ [6] huyền lãm,[7] năng vô tì hồ? [8]
- Ái dân trị quốc năng vô vi hồ?[9]
- Thiên môn khai hạp, năng vô thư hồ?[10]
- Minh bạch tứ đạt năng vô tri hồ?[11]
- Sinh nhi súc chi, sinh nhi bất hữu, vi nhi bất thị, trưởng chi bất tể, thị vị huyền đức.[12]
Dịch xuôi:
Năng vi (Làm được không?)
- Có thể đem hồn phách ôm ấp lấy Đạo, không lìa xa chăng?
- Có thể giữ cho nguyên khí không tán loạn, giữ vẹn thiên chân, hoàn toàn theo được đạo Trời, (định luật trời đất) như anh nhi chăng?
- Có thể tẩy trừ được (trần cấu), giữ được cho gương lòng trong sáng không tì vết chăng?
- Có thể yêu dân trị nước, mà vẫn vô vi chăng?
- Cơ trời mở đóng, có thể thuận ứng như con mái chăng?
- Có thể sáng suốt mà như người vô tri chăng?
- Sinh dưỡng vạn vật; sống mà vẫn như không có; làm mà không cậy công; khiến cho lớn mà không đòi làm chủ, thế là đức sâu xa vậy.
Dịch thơ:
- Làm sao đem hết xác hồn,
Hòa mình với Đạo chẳng còn lìa xa.
- Làm sao giữ vẹn tinh hoa,
Sống đời thanh thản, như là Anh Nhi!
- Làm sao rũ sạch hà tì,
Gương lòng vằng vặc, quang huy vẹn tuyền!
- Thương dân trị nước cho yên,
Vô vi mà vẫn ấm êm mới là!
- Cửa trời mở đóng lại qua,
Thuận theo, chẳng dám phôi pha mệnh trời!
- Muốn điều thông suốt khúc nhôi,
Ở sao vẫn tựa như người vô tri!
- (Những người đức hạnh huyền vi,)
Dưỡng sinh muôn vật chẳng hề tâng công,
Sống đời vẫn tựa như không,
Cần cù lao tác, chẳng mong đáp đền.
Giúp dân, nhưng chẳng tranh quyền,
Ấy là đức hạnh nhiệm huyền, siêu vi.
BÌNH GIẢNG
Chương này, theo James Legge, là một chương tối nghĩa nhất của sách. Vì thế ta thấy các nhà bình giải chương này theo nhiều trình độ cao thấp khác nhau.
Trước khi đi vào chi tiết, ta hãy tóm tắt đại ý của chương. Chương này nói lên những nguyện vọng chính yếu của Lão tử.
- Làm sao sống kết hợp với trời, với Đạo (ba câu đầu).
- Làm sao thương dân, trị dân mà không làm nhũng loạn dân (câu 4).
- Làm sao sống thuận mệnh trời (câu 5).
- Làm sao thông minh duệ trí, mà không phô trương (câu 6).
- Làm sao làm ơn ích cho muôn loài, mà không tự thị (câu 7).
- Làm sao sống kết hợp với Trời, với Đạo
- Tải doanh phách, bão nhất:
– Lão tử cho rằng muốn sống kết hợp với Trời với Đạo, thời phải dùng hết hồn, xác mình, hết khả năng mình.
Đạo Lão gọi thế là:
– Thủ Trung 守 中, Bão Nhất 抱 一
– Bão Nguyên 抱 元, Thủ Nhất 守 一
– Kiến tố 見 素, Bão phác 抱 樸
– Đắc Nhất 得 一, Đắc Đạo 得 道
Thượng phẩm đơn pháp cũng có đề cập đến «bão nguyên, thủ nhất» và giải Nguyên là «Nguyên thủy tể khí»; Nhất là «Bản lai nguyên tính».
Lão tử đề cập đến:
– «Thủ trung» ở chương 5.
– «Bão nhất» ở chương này.
– Và «Đắc nhất» ở chương 39.
Hà Thượng Công cho rằng nếu con người ôm ấp được Trời, được Nhất, khiến không lìa xa thân mình, sẽ được trường tồn; và sau đó ông cũng đề cập đến chương nói về Đắc Nhất của Lão tử. Sống kết hợp với Trời, với Đạo là lý tưởng của mọi đạo giáo.
Lão tử nói: «Tải doanh phách bão nhất năng vô ly hồ.» thì Chúa Jesus cũng nói: «Ngươi phải mến Chúa, là Chúa Trời người, hết lòng, hết linh hồn, hết sức, hết trí ngươi.» (Luc, 10-26).
Theo từ ngữ của huyền học, thì Bão Nhất, Đắc Nhất, chính là tìm ra được Trung điểm tâm hồn, đáy thẳm tầng sâu tâm hồn, nơi phát xuất tung tỏa ra mọi quan năng. Đó tức là tìm ra được vô cùng lồng trong vạn hữu, vĩnh cửu lồng trong tạm bợ, biến thiên. [13]
Trong quyển Yoga và Thiền học của Nguyễn Duy Hinh, nơi trang 55, ta thấy một đoạn rất lý thú như sau:
«Người tu được Một mới là linh,
Một ấy gắng tìm ở giữa mình.
Lặng lẽ tịch ngồi, gom tứ tổ,
Im lìm ngưng ngó, hiệp tam tinh.
Đem thần về cội, tâm vô động,
Dẫn khí qui nguyên, khí phải bình.
Nhất khiếu huyền linh, thông vạn pháp.
Thiên kinh, vạn quyển nhất thời minh.
«Một là gì? Tức là Chân Như, Chân thần, Chân nhân, Chân tâm, là Đạo, Niết Bàn, là Chân lý v. v…
Một ấy, bạn khỏi tìm đâu xa. Hãy tìm ngay trong cái Tâm thanh tịnh, sáng suốt của mình. Tứ tổ là tứ đại, tức là tất cả các giác quan gom về một mối.
Khi tinh, khí, thần hiệp làm một, tất nhiên cái tâm phát sinh diệu dụng, sáng suốt tỏ tường, soi thấu mọi sự vật.
Bởi trong cái tâm thanh tịnh và sáng suốt ấy gom chứa và thông suốt tất cả, cho nên nói là «Thiên kinh vạn quyển nhất thời minh». Tất cả các kinh sách đều do một cái chân tâm mà có, tuy bày ra muôn ngàn lời lẽ, gương tích, nhưng cũng đồng một chân lý.»
Tam Mao Chân Quân 三 茅 真 君 có thơ:
Linh đài trạm trạm tự băng hồ
靈 臺 湛 湛 似 冰 壺
Chỉ hứa nguyên thần lý diện cư
只許 元 神 裏 面 居
Nhược hướng thủ trung lưu nhất vật
若 向 此 中留 一 物
Khởi năng chứng Đạo hợp hư vô. [14]
起能 証 道 合 虛 無
Tạm dịch:
Tâm linh man mác tựa băng hồ,
Nơi ấy Nguyên thần độc nhất cư,
Nếu để vật chi vương vấn đó,
Làm sao chứng Đạo, hợp Hư vô.
Khẩu quyết «Tải doanh phách bão nhất» cũng giúp chúng ta hiểu các khẩu quyết tương tự khác như:
– Toản thốc ngũ hành 攢 簇 五 行
– Tam hoa qui đỉnh 三 花 歸 頂
– Ngũ khí triều nguyên 五 氣 朝 元
– Tứ tổ qui gia 四 祖 歸 家
– Tính 性, tình 情, hồn 魂, phách 魄, ý 意, qui trung 歸 中, v. v… của Đạo Lão.
- Chuyên khí trí nhu, năng anh nhi hồ.
«Chuyên khí trí nhu» tức là giữ sao cho vẹn thiên chân, thiên tính, không để cho nó hao tán, và để cho nó được tới chỗ nhu hòa tột mức. (Lưu Tư)
Hà Thượng Công cũng cho rằng «chuyên khí» là giữ cho tinh khí không tán loạn.
Tống Long Uyên cho rằng «chuyên khí chí nhu» là trạng thái vô tư, vô lự, vô tri, vô dục, khi mọi vọng niệm đã tiêu tan. [15]
«Anh nhi» thường được hiểu là anh hài, là trẻ sơ sinh.
Nhưng kết quả của công phu tu luyện không phải là trở về trạng thái trẻ sơ sinh, mà chính là trở thành «thần minh».
Vì tu tiên đạo đức là phải đi hết con đường nhân đạo, rồi mới lên tới tiên đạo,[16] mới có thể thông linh đạt biến,[17] tâm tĩnh, khí định, sống một cuộc đời tiêu sái, hồn nhiên.
Thượng phẩm đan pháp cho rằng: Anh nhi tức là Thiên chân ngưng kết, chứ không còn phải là phàm tinh, phàm khí, phàm thần, ẩn hiện tùy tâm, có thể xuyên qua vàng, qua sắt, mà không hề để lại vết tích gì. [18]
Thế tức là «Tiên thiên chân thể» đã hiển lộ,[19] «phàm tâm đã sạch», «chân tính» đã được phát huy.[20]
Lúc ấy con người sẽ sống hoàn toàn tự nhiên, tự tại, sảng khoái, thần tiên. Thế gọi là «sống chí thành bắt chước tự nhiên». [21]
Nhập dược kính 入 藥 鏡 của Thôi Hi Phạm 崔 希 范 có thơ rằng:
Đại đạo hư vô pháp tự nhiên
大 道 虛 無 法 自 然
Tự nhiên chi ngoại cánh vô huyền
自 然 之 外 更 無 玄
Trí nhu, chuyên khí, anh nhi dạng
致 柔 專 氣 嬰 兒 樣
Cơ tức cầu san, khốn tức miên. [22]
飢 即 求 餐 困 即 眠
Tạm dịch:
Hư vô, đạo phỏng tự nhiên,
Ngoài ra, nào có phép huyền nào đâu?
Sống đời thanh thản, tiêu dao,
Đói ăn mệt ngủ, khác nào anh nhi.
- Địch trừ huyền lãm, năng vô tì hồ.
Tống Long Uyên cho rằng «huyền lãm» là kiến thức, kiến văn.
Khi chưa đắc đạo thì tạm dùng nó, như là thuyền bè để qua sông. Khi đã đắc đạo, thời phải rũ bỏ kiến thức gian trần cho tâm hồn được thảnh thơi, y như khi đã hết bệnh thời thôi dùng thuốc.[23]
Hà Thượng Công cho rằng «huyền lãm» là nhìn thấu u huyền và giải rằng khi đã tẩy rửa cho tâm hồn trở nên thanh khiết, thì tâm hồn sẽ thấu suốt vạn sự, vạn duyên, sẽ nhìn thấu u huyền.[24]
Trương Mặc lại cho rằng gột rửa trừ bỏ những bụi bậm xấu dơ bám vào tấm gương siêu hình «huyền lãm» khiến cho nó trở nên trong suốt sáng ngời không chút bợn nhơ, vẩn đục.[25]
Nếu ta chấp nhận chủ trương của Trương Mặc, thì câu này cũng giống như câu kệ của Thần Tú:
Thân thị bồ đề thụ
身 是 菩 提 樹
Tâm như minh kính đài
心 如 明 鏡 臺
Thời thời cần phất thức
時 時 勤 拂 拭
Mạc sử nhạ trần ai
莫 使 惹 塵 埃
«Thân như cây bồ đề,
Tâm như đài gương tỏ,
Thường khi lo phủi chùi,
Đừng để đóng bụi nhọ.»
Nhiều nhà bình giải cho rằng chương này dạy về phép vệ sinh, cốt sao cho «linh, nhục điều hòa». [26]
Thiết tưởng giải như vậy, mặc nhiên đã hạ Lão tử xuống một trình độ rất thấp.
Riêng tôi, tôi cho rằng chương này đã cho ta những tôn chỉ, những phương pháp để đạt tới Thái cực, tới Tuyệt đối, thực hiện được Thiên chân, Thiên thể.
Muốn vậy phải giữ cho tâm thần được nguyên tuyền, thanh sảng, thần thanh, trí định, tâm bình, khí hòa, phải hết lòng hết sức ao ước kết hợp với Thiên lý, Thiên chân… [27]
- Làm sao trị dân trị nước mà vẫn vô vi
Lão tử chủ trương không dùng lối hữu vi, hữu dục mà lũng đoạn đời sống tự nhiên của dân. Thương dân chính là để cho dân thuận sinh, thuận hóa.
Cai trị bằng lối vô vi, thương dân mà dân không biết, trị dân mà dân không hay, như vậy mới cao siêu.
- Làm sao sống thuận mệnh Trời
Muốn sống thuận mệnh trời, phải biết theo đường lối nhu thuận, không bao giờ được gàng quải sự biến hóa của trời đất. Đó là theo đường lối Âm nhu, thuận ứng, mà Dịch đã đề cập trong quẻ Khôn.
Muốn vậy phải sống theo «thiên thời, địa lợi, nhân hòa» và nhất là phải biết sống thuận theo tuổi tác mình.
Khi còn trẻ, phải thuận theo lẽ trời mà hướng ngoại để góp phần xây dựng gia đình, quốc gia, xã hội.
Khi đã đứng tuổi, phải biết hướng nội, tu tâm, tu tính, mong có ngày qui nguyên, phản bản.
Gẫm đạo lý có sau, có trước,
Lẽ Âm dương có ngược, có xuôi.
Ngược là gió cuốn bụi đời,
Đẩy đưa vào chốn trần ai, cát lầm.
Có thử thách mới phân vàng đá,
Có lầm than mới rõ chuyện đời.
Khi xuôi, sấm chớp tơi bời,
Tầng sâu bày giải căn trời nội tâm.
Trông tỏ đức chí nhân, chí chính,
Biết mục phiêu sẽ định, sẽ an,
Rồi ra suy xét nguồn cơn,
Con đường phối mệnh chu toàn tóc tơ. [28]
Sự thuận thảo cao siêu nhất là sống hoàn toàn thuận theo Thiên chân, Thiên lý tiềm ẩn trong lòng mình.
Các nhà huyền học đều cho rằng nhu thuận, tự nhiên là điều kiện để tiếp xúc với Chân ngã.
Họa sĩ Raphael bảo họa sĩ Léonard de Vinci: «Tôi nhận thấy rằng khi vẽ, mình không được nghĩ gì; lúc đó sẽ vẽ đẹp hơn.»
Tiểu ngã như vậy cần phải nhận định được sự thiếu sót, bất toàn của mình, và cần phải thuận theo thiên chân, thiên tính, hoạt động trong tầng sâu tâm hồn mình.[29]
Thế là thuận phục để thần thánh hóa mình.[30]
- Làm sao thông minh, duệ trí mà không phô trương
Đạo vốn quang minh, nên đạt đạo sẽ trở nên thông minh, duệ trí.
Trung Dung viết:
«Vốn hoàn thiện, quang hoa mọi lẽ,
Ấy tính trời muôn vẻ tinh anh,
Quang minh rồi mới tinh thành,
Ấy nhờ giáo hóa, tập thành mà nên.
Đã hoàn thiện, tất nhiên thông tuệ,
Thông tuệ rồi ắt sẽ tinh thành.» [31]
Thế nhưng, cần phải biết che dấu bớt sự thông tuệ của mình đi, như vậy mới an thân.
Đạo Lão gọi thế là: «Hàm chương» [32] và «Dụng hối nhi minh».[33]
- Làm sao ơn ích cho muôn loài mà không tự thị
Trời đất làm ơn, ích cho muôn loài mà chẳng bao giờ tự cao, tự đại, tự tôn, tự thị.
Thánh nhân suốt đời làm ơn ích cho muôn loài, mà chẳng bao giờ khoe công, như vậy mới gọi là «Huyền đức».
Huyền đức là đức hạnh huyền vi, cao diệu.
[1] Doanh phách 營 魄: Hồn phách (doanh 營: hồn). Wieger lại giải doanh là xác.
[2] Bão nhất 抱 一: ôm ấp Đạo.
[3] Chuyên khí trí nhu 專 氣 致 柔: giữ vẹn sinh khí, cho đến chỗ hoàn toàn nhu thuận.
[4] Anh nhi 嬰 兒: a) trẻ thơ; b) hóa nhi, chân nhân.
[5] Dịch 滌: rửa.
[6] Trừ 除: bỏ đi.
[7] Huyền lãm 玄 覽: gương siêu hình (Trương Mặc); sự hiểu biết sâu xa huyền diệu (Hà Thượng Công); xem nhiều, biết nhiều (kiến thức) (Tống Long Uyên)
[8] Tì 疵: tì vết.
[9] Vô vi 無 為: có sách viết là vô tri.
[10] Vô thư 無 雌: thư 雌: con mái. Tống Long Uyên viết là vi thư 為 雌.
[11] Vô tri 無 知: có sách viết là vô vi 無 為 .
[12] Huyền đức 玄 德: đức sâu xa nhiệm mầu.
[13] «There is a root or depth in thee», says Law, «from whence all these faculties come forth as lines from a centre, or as branches from the body of a tree.
This depth is called the centre, the fund, or bottom, of the soul. This depth is the Unity, the Eternity, I had almost said the infinity of the soul, for it is so infinite that nothing can satisfy it, or give it any rest, but the infinity of God.» — Evelyn Underhill, Mysticism, p. 61.
[14] Tống Long Uyên, Đạo đức kinh giảng nghĩa, tr. 14.
[15] Tống Long Uyên, Đạo đức kinh giảng nghĩa, tr. 14b.
[16] Dục tri tiên đạo, tiên tận nhân đạo, nhân đạo bất tu, tiên đạo viễn hĩ. 欲 知 仙 道 先 盡 人 道 人 道 不 修 仙 道 遠 矣.
[17] Thượng phẩm đan pháp 上 品 丹 法 Tiết thứ tr. 7a. Thái ất kim hoa tông chỉ 太 乙 金 華 宗 旨, 15b.
[18] Thượng phẩm đơn pháp, tr. 10a.
[19] ib. 1a.
[20] Luyện khứ phàm tâm độc tồn chân tính 鍊 去 凡 心 獨 存 真 性. ib. 1a.
[21] Thôi Hi Phạm, Nhập dược kính, tr. 6b.
[22] Thôi Hi Phạm, Nhập dược kính, tr. 6b.
[23] Tống Long Uyên, Đạo đức kinh giải nghĩa, tr. 14b.
[24] Âm chú, Hà Thượng Công, Lão tử Đạo đức kinh, tr. 5a.
[25] Nghiêm Toản, Lão tử Đạo đức kinh, quyển 1, tr. 53.
[26] Xem Lưu Tư, Bạch thoại thích giải Đạo đức kinh, tr. 23.
Xem Nghiêm Toản, Lão tử Đạo đức kinh, tr. 58-59.
[27] Đọc thêm Trang Tử, Nam Hoa Kinh, chương Đại Tông Sư, đoạn J; Trí bắc du đoạn C, v. v…
[28] Xem Nguyễn Văn Thọ, Trung Dung tân khảo, tr. 499-500.
[29] To let oneself go, be quiet, receptive, is the condition under which such contact with the comic Life may be obtained. «I have noticed that when one pains, one should think of nothing: everything then comes better,» says the young Raphael to Leonardo Da Vinci. The superficial self must here acknowledge its own insufficiency, must become the humble servant of a more profound and vital consciousness…
Then the conscious mind being passive, the more divine mind below the threshold – organ of our free creative life – can emerge and presents its report. In the words of an older mystic, «The soul leaving all things and forgetting herself, is immersed in the ocean of Divine Splendour, and illuminated by the sublime Abyss of the Unfathomable Wisdom».
(Evelyn Underhill, Mysticism, p. 76-77)
[30] Surrender and deification, Ib. p. 113.
[31] Xem Nguyễn Văn Thọ, Trung Dung tân khảo, tr. 50.
[32] Kinh Dịch, quẻ Khôn, hào lục tam.
[33] Kinh Dịch, quẻ Minh Di, Tượng truyện.